Dưới đây là những thông tin bạn cần biết vào thứ Ba, ngày 30 tháng 1:
Thị trường vẫn thận trọng vào đầu ngày thứ Ba trong bối cảnh có nhiều tin tức xoay quanh cuộc khủng hoảng tài sản ở Trung Quốc và căng thẳng địa chính trị leo thang. Số liệu tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) quý 4 của Đức và Khu vực đồng euro sẽ được các nhà đầu tư theo dõi chặt chẽ. Cuối ngày, Conference Board sẽ công bố dữ liệu Chỉ số niềm tin người tiêu dùng Mỹ cho tháng 1 và Cục Thống kê Lao động sẽ công bố báo cáo Cơ hội việc làm của JOLTS cho tháng 12.
Chỉ số đô la Mỹ đã tăng lên mức 104,00 vào thứ Hai nhưng mất sức hút vào cuối phiên giao dịch tại Mỹ. Hiệu suất lạc quan của các cổ phiếu công nghệ đã giúp Nasdaq Composite tăng hơn 1% trong ngày và khiến đồng Đô la Mỹ (USD) khó duy trì sức mạnh của mình. Trong khi đó, lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm chuẩn giảm xuống dưới 4,1%, gây thêm gánh nặng cho đồng USD.
Đầu thứ Ba, các chỉ số chứng khoán lớn ở châu Á chịu áp lực giảm giá nặng nề sau báo cáo hôm thứ Hai về việc Tòa án Tối cao Hồng Kông ra lệnh thanh lý Tập đoàn Evergrande. Vào thời điểm viết bài, chỉ số Hang Seng của Hồng Kông đã giảm 2% trong ngày và Shanghai Composite giảm hơn 0,5%.
Trong khi đó, CNN đưa tin rằng phản ứng của Tổng thống Mỹ Joe Biden trước cuộc tấn công chết người hôm Chủ nhật nhằm vào quân đội Mỹ có thể sẽ mạnh mẽ hơn các hành động trả đũa trước đó. Tổng thống Mỹ Biden dự kiến sẽ cho phép thực hiện hành động quân sự nhưng các chuyên gia ngày càng lo ngại về xung đột ngày càng sâu sắc trong khu vực. Trong phiên giao dịch châu Âu hôm thứ Ba, hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch giảm nhẹ trong ngày.
Giá đồng đô la Mỹ tuần này
Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ phần trăm thay đổi của đồng đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được niêm yết trong tuần này. Đồng đô la Mỹ mạnh nhất so với đồng euro.
USD | EUR | GBP | CAD | AUD | JPY | NZD | CHF | |
USD | 0.24% | -0.03% | -0.35% | -0.55% | -0.55% | -0.77% | -0.28% | |
EUR | -0.24% | -0.25% | -0.57% | -0.76% | -0.76% | -1.00% | -0.51% | |
GBP | 0.01% | 0.26% | -0.33% | -0.53% | -0.51% | -0.75% | -0.27% | |
CAD | 0.34% | 0.57% | 0.31% | -0.21% | -0.19% | -0.42% | 0.06% | |
AUD | 0.55% | 0.75% | 0.50% | 0.19% | 0.00% | -0.23% | 0.25% | |
JPY | 0.54% | 0.75% | 0.64% | 0.19% | 0.00% | -0.25% | 0.25% | |
NZD | 0.76% | 1.01% | 0.74% | 0.41% | 0.22% | 0.22% | 0.48% | |
CHF | 0.27% | 0.50% | 0.25% | -0.07% | -0.25% | -0.25% | -0.48% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đơn vị tiền tệ cơ sở được chọn từ cột bên trái, trong khi loại tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn đồng euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang đến đồng yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho đồng EUR (cơ sở)/JPY (báo giá).
EUR/USD đã giảm xuống dưới 1,0800 lần đầu tiên sau hơn một tháng vào thứ Hai nhưng đã điều chỉnh được về mặt kỹ thuật. Đầu thứ Ba, cặp tiền tệ này giữ ổn định trên mức 1,0800. Nền kinh tế Đức được dự báo sẽ suy giảm với tốc độ hàng năm là 0,2% trong quý 4 và nền kinh tế khu vực đồng euro dự kiến sẽ trì trệ trong cùng kỳ.
GBP/USD đã giảm thấp hơn vào thứ Hai nhưng không gặp khó khăn gì trong việc hạn chế mức lỗ. Cặp tiền tệ này tiếp tục đi ngang ở mức khoảng 1,2700 vào thứ Ba.
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida nói với quốc hội hôm thứ Ba rằng họ sẽ làm mọi thứ có thể để tăng thu nhập hộ gia đình và nói thêm rằng việc tăng lương là một vấn đề cấp bách đối với chính quyền của ông. USD/JPY đóng cửa trong vùng âm vào thứ Hai và giảm xuống dưới 147,50 vào đầu ngày thứ Ba.
Dữ liệu từ Úc cho thấy Doanh số bán lẻ giảm 2,7% so với cùng kỳ hàng tháng trong tháng 12 sau mức tăng 2% được ghi nhận vào tháng 11. AUD/USD tăng cao hơn trong phiên giao dịch châu Á bất chấp dữ liệu đáng thất vọng và lần cuối cùng được nhìn thấy giao dịch trên 0,6600.
Vàng được hưởng lợi từ việc lãi suất trái phiếu Mỹ giảm và căng thẳng địa chính trị leo thang vào thứ Hai và tăng hơn 0,5% hàng ngày. XAU/USD giữ ổn định trên mức 2.030$ một chút vào đầu ngày thứ Ba.
Chia sẻ: Cung cấp tin tức