Dưới đây là những thông tin bạn cần biết vào thứ Năm, ngày 8 tháng 2:
Các cặp tiền tệ chính dao động trong phạm vi tương đối hẹp trong nửa cuối tuần khi các nhà đầu tư tiếp tục tìm kiếm chất xúc tác mới. Sau đó trong phiên giao dịch này, dữ liệu về Số đơn yêu cầu trợ cấp thất nghiệp lần đầu hàng tuần và Tồn kho bán sỉ tháng 12 sẽ được công bố theo lịch kinh tế của Mỹ. Các nhà hoạch định chính sách từ Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), Ngân hàng trung ương Anh (BoE) và Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ có bài phát biểu suốt cả ngày.
Chỉ số đô la Mỹ (USD) giảm nhẹ vào thứ Tư nhưng vẫn giữ được gần mức 104,00. Lãi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm chuẩn ổn định trên 4,1% sau khi lãi suất cao tại phiên đấu giá trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm gần nhất đạt 4,09%. Đầu ngày thứ Năm, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm tăng giảm trong biên độ hẹp ở mức khoảng 4,1% và hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán Mỹ giao dịch hầu như không thay đổi.
Trong giờ giao dịch châu Á, dữ liệu từ Trung Quốc cho thấy Chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,3% hàng tháng trong tháng 1. CPI hàng năm giảm 0,8% trong cùng kỳ.
Giá đồng đô la Mỹ tuần này
Bảng dưới đây cho thấy tỷ lệ phần trăm thay đổi của đồng đô la Mỹ (USD) so với các loại tiền tệ chính được niêm yết trong tuần này. Đồng đô la Mỹ yếu nhất so với đồng đô la New Zealand.
USD | EUR | GBP | CAD | AUD | JPY | NZD | CHF | |
USD | -0.04% | -0.07% | -0.12% | -0.27% | 0.15% | -0.82% | 0.67% | |
EUR | 0.04% | -0.03% | -0.08% | -0.24% | 0.19% | -0.77% | 0.71% | |
GBP | 0.07% | 0.04% | -0.05% | -0.20% | 0.22% | -0.74% | 0.74% | |
CAD | 0.12% | 0.08% | 0.04% | -0.16% | 0.26% | -0.70% | 0.79% | |
AUD | 0.27% | 0.23% | 0.20% | 0.15% | 0.42% | -0.54% | 0.94% | |
JPY | -0.16% | -0.19% | -0.24% | -0.26% | -0.39% | -0.98% | 0.53% | |
NZD | 0.82% | 0.77% | 0.73% | 0.68% | 0.53% | 0.95% | 1.49% | |
CHF | -0.66% | -0.70% | -0.73% | -0.78% | -0.94% | -0.51% | -1.48% |
Bản đồ nhiệt hiển thị phần trăm thay đổi của các loại tiền tệ chính so với nhau. Đơn vị tiền tệ cơ sở được chọn từ cột bên trái, trong khi loại tiền định giá được chọn từ hàng trên cùng. Ví dụ: nếu bạn chọn đồng euro từ cột bên trái và di chuyển dọc theo đường ngang đến đồng yên Nhật, phần trăm thay đổi được hiển thị trong ô sẽ đại diện cho đồng EUR (cơ sở)/JPY (báo giá).
EUR/USD đã ghi nhận mức tăng khiêm tốn trong ngày thứ hai liên tiếp vào thứ Tư. Cặp tiền tệ này tiếp tục tăng cao hơn tới mức 1,0800 trong đầu phiên giao dịch châu Âu.
GBP/USD tăng 0,25% vào thứ Tư nhưng mất đà tăng. Tại thời điểm viết bài, cặp tiền tệ này không thay đổi trong ngày ở mức 1,2630.
Phó Thống đốc Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BoJ) Shinichi Uchida cho biết hôm thứ Năm rằng lộ trình lãi suất trong tương lai phụ thuộc vào diễn biến kinh tế và giá cả vào thời điểm đó. Phó Thống đốc Uchida nói thêm: “Trước tiên, chúng tôi sẽ xác định xem liệu các điều kiện có phù hợp để thay đổi chính sách hay không, sau đó xem xét các biện pháp và trình tự thích hợp nhất để thực hiện việc đó”. USD/JPY tăng cao hơn trong phiên giao dịch châu Á và lần cuối cùng được nhìn thấy giao dịch trong vùng tích cực gần mức 148,70.
Bản tóm tắt thảo luận mới nhất của Ngân hàng trung ương Canada (BoC) cho thấy rằng với tình trạng lạm phát vẫn còn quá cao và quá rộng, các thành viên muốn nói rõ trong thông tin liên lạc của mình rằng họ vẫn lo ngại về sự tồn tại của lạm phát cơ bản. USD/CAD tiếp tục giảm xuống mức 1,3450 sau khi đóng cửa hai ngày trước đó trong sắc đỏ.
Vàng đã tăng lên trên 2.040$ vào thứ Tư nhưng mất lực kéo và đóng cửa trong ngày không thay đổi khi lãi suất trái phiếu Mỹ phục hồi sau đó trong phiên giao dịch Mỹ. XAU/USD giao dịch trong kênh hẹp trên 2.030$ vào đầu ngày thứ Năm.
Chia sẻ: Cung cấp tin tức